Wednesday, May 10, 2017

CHÚA VÀ PHẬT TRONG TÂM TRÍ TÔI



Bài viết sau đây của người bạn, người cùng tôn giáo với tôi là nhà thơ Trần Mạnh Hảo. Ông tôn trọng và đánh giá cao 2 người mà ông coi đó là "nhà cách mạng giải phóng con người". Đó là Chúa Giesu và Phật Thích Ca Mâu Ni. Điều này đúng với tinh thần của Đức Giao Hoàng Francis đã nói là “Một người Ky Tô hữu chân chính là một người biết tôn trọng các tôn giáo khác !”.

***
Albert Eintein nhà bác học vĩ đại, tín đồ Ky Tô giáo sau khi nghiên cứu Phật giáo, đã nói : “ Phật giáo sẽ là tôn giáo tương lai của nhân loại”. Leo Tolstoy – nhà văn Nga vĩ đại, tín đồ Ky tô giáo Chính thống, chủ trương đấu tranh bất bạo động; Người được thánh Mahatma Gandhi Ấn Độ tôn làm thầy, đã viết nhiều bài trên báo Nga thời Nga hoàng ca ngợi đạo Phật. Tolstoy liền bị giáo hội Chính Thống Nga và Sa hoàng rút phép thông công ( không chấp nhận ông là người Thiên Chúa giáo nữa). Nhưng văn hào Nga này tuyên bố : “Tôi vẫn là người Ky Tô giáo” !

Thật may mắn, sau nhiều thế kỷ khép kín và tự coi mình là tôn giáo duy nhất đúng, nay Đức giáo hoàng Phan Xi Cô đã tuyến bố rằng : “Một người Ky Tô hữu chân chính là một người biết tôn trọng các tôn giáo khác !” . Ý này thì Đức Đạt - Lai Lạt-Ma đã nói từ lâu về tín đồ Phật giáo.

Ở Việt Nam, linh mục Công giáo Thiện Cẩm ( cử nhân thần học, tiến sĩ đại học Sorbonne 1967) năm 1970 đã xuất bản ở Sài Gòn cuốn sách ca ngợi đạo Phật : “Quan niệm giải thoát trong Phật giáo cũ”, nhưng tòa giám mục Sài Gòn đâu có làm khó dễ hay hạch tội linh mục Thiện Cẩm. Một linh mục khác là nhà triết học Kim Định đã viết nhiều sách nói về hành trình văn hóa Việt Nam, trong đó có nhiều trang ca ngợi Phật giáo cũng không hề bị giáo hội nhắc nhở hay phạt vạ. Xem ra giáo hội Thiên Chúa giáo ở miền Nam thoáng hơn giáo hội Thiên Chúa giáo miền Bắc trước năm 1975 nhiều.

Như tôi từng bộc bạch, tôi có hai ông nội : ông nội ruột theo Phật giáo, ông nội nuôi bố tôi từng tấm bé theo đạo Chúa. Tất nhiên, sinh ra sau khi làm phép rửa tội ở nhà thờ, tôi đã là một Ky Tô hữu từ trong nôi. Nhà hai ông nội ở hai thôn khác nhau nhưng rất gần nhau. Năm 10 tuổi, ngày ba mươi tết, bố mẹ sai tôi một mình xách làn mây bánh chưng và rượu xuống tết ông nội ruột ( ông nội nuôi theo đạo Chúa đã di cư vào Nam từ năm 1954). Trước bàn thờ Phật, ông tôi đang thắp hương cho Phật, sau đó thắp hương cho bà nội đã mất của tôi. Nhìn ông thành kính, tôi cũng thấy thiêng liêng. Ông bảo : cháu thắp hương cho bà không ? Tôi gật đầu ! Ông lại bảo : hai cây nhang, cháu thắp cho Phật trước, rồi mới thắp nhang cho bà nội. Tôi thắp hương và xá như ông nội dạy ! Ông nội khen tôi ngoan và nói Phật và bà nội sẽ phù hộ cho cháu… Tôi thấy lòng tràn ngập một nỗi gì rất cao cả thiêng liêng…Hình như Phật tại tâm tôi thức dậy từ đấy !

Sau này lớn lên tiếp xúc với sách vở Phật giáo, Thiên Chúa giáo tôi mới thấy trong tâm hồn mình có cả Phật và Chúa. Phật giải thoát tôi ngay chính tại trần gian, Chúa giải thoát tôi sau khi chết. Phật giúp tôi tìm thấy Niết bàn trong cõi này, Niết Bàn trong chính tâm hồn mình khi mình giác ngộ trong từ bi hỉ xả, bỏ bớt tham sân si, quẳng gánh lo tìm niềm vui sống. Chúa cho tôi hi vọng sự sống đời sau…

Ngoài ý nghĩa tôn giáo, tâm linh, triết học tư tưởng cao sâu mầu nhiệm, Phật và Chúa còn là hai nhân vật lịch sử có thật, hai nhà giải phóng nô lệ vĩ đại nhất !

Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độ phân chia giai cấp khủng khiếp. Giai cấp thượng lưu nhất là Brahmana ( Bà La môn) tăng lữ. Giai cấp thứ hai Khattiya ( vua chúa, tướng lĩnh, quan lại) cai quản xã hội. Giai cấp thứ ba là Vessa là lớp người trung lưu, thương gia. Hai giai cấp cuối cùng, dưới đáy của xã hội là Sudra là lớp người lao động chân tay, coi như nô lệ thấp hèn. Giai cấp cuối cùng không được coi là con người có tên là Cadala còn tệ hơn một nô lệ nên có câu “giết một người Cadala không có tội”…

Ngài Thích Ca Mầu Ni sau nhiều năm theo đạo Bà La Môn để cầu nguyện Thượng Đế cứu đám đông nô lệ khổ đau trong xã hội mãi không được, Ngài bèn không tin vào Thượng Đế nữa.

Tách con người khỏi Thượng Đế để con người tìm cách tự cứu mình thoát khổ là tư tưởng, hành vi vĩ đại của Đức Phật. Sau khi tu luyện thành công dưới bóng Bồ Đề, Đức Phật đã trao vào tay con người chính số phận của mình, trao cho con người tự do lựa chọn để tự mình giải thoát mình khỏi khổ nạn trần gian của một kiếp nô lệ tâm hồn ( nô lệ thượng đế, nô lệ tăng lữ, nô lệ vua chúa, nô lệ của cải tiền bạc)… Cho nên lúc đầu các tầng lớp nô lệ nhân dân đã tin theo Phật, theo Ngài để tìm cách giải thoát mình khỏi vòng nô lệ thân xác và tâm hồn.

Phật chính là người anh hùng giải phóng nô lệ đầu tiên của nhân loại xét trên bình diện xã hội. Đức Phật đã trả lại nhân vị cho những kẻ nô lệ không được coi là người, đưa họ lên chốn bình đẳng với các tầng lớp khác, trả cho họ quyền tự do...

Năm trăm năm sau Đức Phật, con một người thợ mộc Do Thái là Jesus Nazaret đã rao giảng đạo Chúa Trời cho các dân ngoại, dám chỉ trích quân xâm lược La Mã và chỉ trích các vị trưởng tế giáo điều trong đền thờ Jerusalem, dám cầm roi đuổi bọn con buôn khỏi đền thờ, xưng mình là Chúa cứu thế. Và Ngài đã bị đóng đanh trên cây thánh giá để tìm tự do nhân phẩm và nước trời cho những kẻ nô lệ bị đế chế La Mã coi không bằng con vật.

Ngài đã mang đến nhân vị cho người nô lệ, coi những kẻ dưới đáy xã hội bằng nhau với vua chúa quan lại. Đạo của Chúa Jesus ban đầu là đạo của nô lệ trên toàn cõi La Mã.

Sau cuộc nổi dậy của nô lệ Spartacus nhằm giải phóng hàng triệu nô lệ trên toàn đế quốc La Mã bị đàn áp khốc liệt, hàng vạn cây thánh giá dựng lên rợp trời đóng đinh hàng vạn nô lệ nổi dậy khắp các bãi biển Địa Trung hải, hàng triệu nô lệ tiếp tục bị La Mã đầy đọa trong địa ngục trần gian là các đấu trường, các đồng lúa, các công xưởng…

Hình như không thể dùng gươm để tiêu diệt nổi chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã.

Khi quân lính của thầy cả Cai- Pha trưởng tế nhà thờ Jerusalem đến vườn Ghiết Si Ma Ni bắt Chúa Jesus, Phê Rô đệ tử Ngài bèn lấy gươm chém đứt tai tên lính Man Cô. Chúa bèn nhặt tai chú lính ấy và gắn vào tai cho lành, đoạn nói : “Phê Rô, hãy cất gươm vào vỏ, KẺ NÀO DÙNG GƯƠM THÌ SẼ CHẾT VÌ GƯƠM”…

Chúa đã dùng vũ khí tình thương để chống lại chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã. Sau 300 năm, chế độ DUY GƯƠM ( duy Mác Lê sau này) La Mã đã quy hàng trước Chúa : đế quốc La Mã của ma quỷ nô lệ hóa con người đã trở lại đạo Thiên chúa từ thời vua Constantin.

Có thể nói, cùng với Phật Thích Ca Mầu Ni 500 trước, Chúa Jesus đã trở thành vị anh hùng giải phóng nô lệ vĩ đại nhất của nhân loại. Hai Ngài đã giải phóng con người khỏi sự nô lệ của chính con người, để tâm hồn con người thoát khỏi sự nô lệ của ma quỷ và bóng tối.

No comments:

Post a Comment